1. DÙNG SỮA CHUA SAU KHI ĂN NO ĐỂ HỖ TRỢ TIÊU HÓA?
Sữa chua quả nhiên là có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa, tuy nhiên các chuyên gia kiến nghị không nên dùng sữa chua sau khi bạn đã ăn no. Do bản thân sữa chua cũng là loại thực phẩm gây cảm giác no mạnh, sau khi ăn no lại dùng thêm sữa chua sẽ không có lợi cho tiêu hóa.
Ngoài ra, sữa chua cũng chứa một nhiệt lượng nhất định, bổ sung thêm sữa chua sau bữa ăn đồng nghĩa nạp thêm một phần nhiệt lượng ngoài mức cần thiết, lâu ngày có thể dẫn đến béo phì. Sữa chua không có thời gian hạn định cho việc thưởng thức, chỉ cần dùng giữa các bữa ăn như món ăn vặt là được.
2. SỮA BÒ CHỨA HÀM LƯỢNG CANXI LỚN HƠN SỮA CHUA?
Nhắc đến việc bổ sung canxi, đa số người ta sẽ nghĩ đến sữa bò chứ không phải sữa chua. Kỳ thực, nếu so sánh thì hàm lượng canxi trong sữa chua có thể cao hơn cả sữa bò. Trong quá trình lên men, các vi khuẩn axit lactic sẽ phân giải đường trong sữa bò tạo thành axit lactic, làm giảm hàm lượng đường trong sữa nhưng vẫn giữ lại các chất dinh dưỡng khác, vì vậy sữa chua vẫn đạt hiệu quả bổ sung canxi.
Hơn nữa, tỷ lệ hấp thu canxi có trong sữa chua vẫn cao hơn sữa bò, đó là do chất Peptide sinh ra từ sự phân giải axit lactic và Protein, thúc đẩy quá trình hấp thu canxi.
3. NGƯỜI MẮC CHỨNG TIỂU ĐƯỜNG KHÔNG THỂ DÙNG SỮA CHUA?
So với sữa bò thì hàm lượng đường trong sữa chua lại cao hơn, vì vậy bị người ta xem là “kị phẩm” đối với người mắc bệnh tiểu đường. Kỳ thực, tuy lượng đường có cao nhưng tốc độ làm tăng đường trong máu của sữa chua không nhanh.
Do Axít lactic trong sữa chua có thể làm chậm quá trình “rỗng” của dạ dày, có tác dụng khống chế lượng đường trong máu sau bữa ăn. Ngoài ra, sữa chua giàu canxi giúp hỗ trợ quá trình phóng thích Insulin bình thường, cân bằng đường huyết. Do đó, người bị tiểu đường vẫn có thể dùng khoảng 125 gram sữa chua mỗi ngày mà không cần lo lắng.
4. SỮA CÀNG CHUA DINH DƯỠNG CÀNG CAO?
Do tên gọi “sữa chua” nên không ít người nghĩ rằng phải càng chua thì mới càng bổ dưỡng. Thực ra, nguồn gốc độ chua của sữa chua là từ Axít lactic do vi khuẩn axit lactic (LAB) phân giải đường trong sữa sinh ra.
Nếu vi khuẩn Clostridium botulinum chiếm ưu thế càng cao thì độ chua càng nhiều nhưng không thể nói sữa chua như thế là tốt hơn. Ngoài ra, độ chua của sữa chua cũng có hạn mức. Nếu trong quá trình bảo quản, vận chuyển mà sữa chua bị đưa ra khỏi môi trường lạnh, đặt ở nhiệt độ ngoài trời hay trong phòng nóng thì vi khuẩn axit lactic sẽ nhanh chóng sinh sôi và khiến độ chua càng tăng lên, vượt quá phạm vi cho phép.
Loại sữa chua này gây cảm giác rất chua nhưng hoạt lực của vi khuẩn axit lactic lại giảm xuống, mức độ biến tính của Protein sữa tăng lên, gây bất lợi cho việc hấp thu vào cơ thể, cũng tạo thêm gánh nặng cho sức khỏe dạ dày, đường ruột.
5. CHẤT TẠO ĐẶC TRONG SỮA CHUA CÓ THỂ GÂY CHỨNG ĐÔNG MÁU?
Chủng loại chất tạo đặc trong sữa chua rất nhiều, bao gồm cả Pectin, Agar , Gelatin v.v… Các chất này thuộc về chất xơ thực vật không tan, thật ra không thể bị cơ thể người hấp thu và tiêu hóa, vì vậy không có độc hại và không gây ra chứng đông máu.
Thậm chí nó còn có lợi cho việc làm chậm tốc độ tăng lên của mỡ và đường trong máu sau bữa ăn chính, là thành phần hữu ích phòng ngừa các bệnh mãn tính.
6. SỮA CHUA CHẾT MEN KHÔNG CÓ DINH DƯỠNG
So với sữa chua men sống thì loại sữa chua chết men sau quá trình ủ lên men sẽ được xử lý qua nhiệt, làm chết men. Vì vậy, nó có thể bảo quản và được bán lâu dài trong môi trường nhiệt độ bình thường. Từ góc độ dinh dưỡng mà nói, điểm khác biệt lớn nhất giữa sữa chua chết men và sữa chua men sống là ở trạng thái của vi khuẩn axit lactic mà thôi. Các thành phần dưỡng chất khác như protein, canxi, vitamin đều không có khác biệt gì.
Do đó, nếu không có điều kiện bảo quản lạnh hay người có dạ dày không chịu được đồ lạnh thì loại sữa chua chết men là lựa chọn lý tưởng hơn.
Bài: Lê Phương
Tiếp Thị Gia Đình